Mẹ vợ ông Hàn mới chết,
con cháu từ xa đổ xô về chịu tang. Các anh chị em vợ của ông chọn một cái hòm do
nhà quàn đề nghị, với giá 12 ngàn đô. Ông Hàn chê đắt, bảo khoan quyết định, chờ
ông khảo giá đã. Ông Hàn bình tĩnh ngồi bên máy vi tinh, lục tìm khảo giá. Bà vợ
ông thì chạy lui chạy tới trong phòng khách, dẫm chân đành đạch trên sàn nhà,
khóc bù lu bù loa, rồi đến day áo ông mà nói:
“Giờ nầy mà anh còn ngồi đây thong dong khảo giá? Chuyện nầy cấp bách. Có phải mua món hàng gia dụng đâu mà chần chờ? Tốn kém bao nhiêu anh em chúng tôi cũng chung chịu. Mẹ chết có một lần. Làm chi cái việc hà tiện xấu thế?”
Ông anh vợ cũng bối rối nói:
“Giờ phút nầy, thì nhà quàn ra giá bao nhiêu, mình cũng phải nhận. Có đắt hơn ít trăm bạc, cũng không sao. Mình lựa chọn cái hòm đó, chứ họ có ép mình đâu?”
Ông Hàn quay ngoắt lại, nói với giọng cứng rắn:
“Ít trăm thì tôi khảo giá làm chi? Phải ít nhất là mấy ngàn đồng. Có thể tiết kiệm được từ 40% đến 60% toàn bộ chi phí tang lễ. Dù là tiền của ai đi nữa, tôi cũng không muốn phung phí.”
Bà vợ thét lên:
“Rồi mua phải thứ hòm giả mạo, không tốt. Nó đâu đem đến liền cho mình được, chờ đến bao giờ mới có? Chậm trể việc ma chay. Mà lỡ nhà quàn không chịu nhận hòm từ nơi khác đưa tới, thì đem cái hòm đi tặng ai, tôi nhất định không cho để trong nhà nầy.”
“Giờ nầy mà anh còn ngồi đây thong dong khảo giá? Chuyện nầy cấp bách. Có phải mua món hàng gia dụng đâu mà chần chờ? Tốn kém bao nhiêu anh em chúng tôi cũng chung chịu. Mẹ chết có một lần. Làm chi cái việc hà tiện xấu thế?”
Ông anh vợ cũng bối rối nói:
“Giờ phút nầy, thì nhà quàn ra giá bao nhiêu, mình cũng phải nhận. Có đắt hơn ít trăm bạc, cũng không sao. Mình lựa chọn cái hòm đó, chứ họ có ép mình đâu?”
Ông Hàn quay ngoắt lại, nói với giọng cứng rắn:
“Ít trăm thì tôi khảo giá làm chi? Phải ít nhất là mấy ngàn đồng. Có thể tiết kiệm được từ 40% đến 60% toàn bộ chi phí tang lễ. Dù là tiền của ai đi nữa, tôi cũng không muốn phung phí.”
Bà vợ thét lên:
“Rồi mua phải thứ hòm giả mạo, không tốt. Nó đâu đem đến liền cho mình được, chờ đến bao giờ mới có? Chậm trể việc ma chay. Mà lỡ nhà quàn không chịu nhận hòm từ nơi khác đưa tới, thì đem cái hòm đi tặng ai, tôi nhất định không cho để trong nhà nầy.”
Hình minh
họa
Ông Hàn cười hề hề, chậm rải trả lời:
“Giả mạo làm sao được? Cũng hòm ấy, cùng hiệu, cùng tên, cùng nhà sản xuất. Nhà quàn cũng mua tại các nơi đó thôi. Rồi cọng thêm chi phí, tiền lời, mà tăng giá lên. Ai dại mua thì ráng chịu. Nhà quàn cũng không làm gì sai trái. Họ làm thương mãi, phải kiếm cho được nhiều tiền lời càng tốt. Họ chẳng có gạt gẫm ai. Nhưng nếu mình mua được hòm đúng giá, thì người bán sẽ chuyển ngay đến nhà quàn trong vòng 24 giở. Chắc chắn. Theo luật liên bang Mỹ, bắt buộc nhà quàn không được từ chối quan tài và các vật dụng cần thiết cho người chết do thân nhân mua và đem đến. Trường hợp đó, nhà quàn chỉ lo các dịch vụ tang ma, các lễ lạc mà thôi. Tôi còn phải kêu nhà quàn cung cấp cho mình bảng ghi giá cả của từng mục, gọi là FPL (Funeral Price List) theo luật định. Tôi sẽ so sánh thêm giá cả của từng mục dịch vụ để không bị hố, trả giá cao, đắt. Bà đừng lo, nếu nhà quàn không nhận hòm, thì tôi bán lại kiếm chút lời.”
“Bây giờ không phải là lúc đùa giỡn được. Anh có chắc hòm được giao đúng thứ mình muốn, và trong vòng 24 giờ không. Giao cho nhà quàn, họ tráo hòm khác thì sao? Anh đã có kinh nghiệm nào đâu?”
“ Mình có thể đòi hiện diện trong lúc giao hàng, ai mà đánh tráo được?”
Cả nhà bực mình, xôn xao vì thái độ kỳ cục của ông Hàn. Một bà chị vợ gay gắt:
“Có phải vì không là mẹ ruột, nên cậu nhẩn nhơ, và đòi làm những chuyện trái đời?”
Ông Hàn hơi giận, giọng cứng, gằn: “Nầy, chị đừng nói thế. Mấy năm nay ai chăm sóc mẹ? Ai đưa mẹ đi bệnh viện, làm đủ thứ giấy tờ, nhắc mẹ uống thuốc hàng ngày? Thằng nầy chứ ai. Thế thì bây giờ mẹ qua đời, tôi không có quyền phụ giúp mẹ và cả gia đình nầy, cử hành tang lễ đàng hoàng hơn, ít tốn kém hơn hay sao?”
Ông Hàn gầm gừ bỏ đi, lục lọi tìm tòi trong mấy chồng hồ sơ, và quăng ra một tờ bào “US News & World Report” và nói:
“Các anh, các chị đọc bài “Đừng Chết Trước Khi Đọc Bài Nầy” (Don’t Die Before You Read This) đi, để biết.”
Hình minh
họa
Vợ ông Hàn la lên:
“Trời ơi, giờ nầy còn bụng dạ nào mà đọc báo? Mà nó viết gì? Sao anh không tóm
tắt kể cho bà con nghe, xem có lọt tai không?”
Ông Hàn chầm chậm nói: “Tác
giả Miriam Horn viết về chuyện linh mục Henry Wasielewsky. Vị linh mục nầy đã
vạch trần cách làm ăn thiếu lương thiện, bóc lột quá đáng của một số nhà quàn
trong lúc tang gia bối rối. Đã bị những nhà quàn bất lương hăm dọa, nhiều lần
kêu điện thoại lúc nửa đêm đòi xin tí huyết, không những thế, ông còn bị cảnh
sát địa phương săn đuổi, và cả vị Giám Mục địa phận cũng đày ông đi xa. Bài báo
viết rất hay, kể rõ một số thủ đoạn của những nhà quàn thiếu lương
thiện.”
Ngưng một lát, uống hớp nước xong, ông Hàn nói tiếp: “Tác giả viết
thêm rằng, người ta không có kinh nghiệm, không có thì giờ trong thời gian cấp
bách, không có đủ bình tĩnh khi đang đau buồn, bối rối, cho nên nhà quàn và
nghĩa địa làm giá rất cao. Tang quyến mệt quá, và nghĩ rằng người chết chỉ có
một lần, nên giá nào cũng chịu. Cò kè giá cả trong lúc đau buồn nầy, thì thấy có
cái gì lấn cấn trong lòng. Trong bài báo nói, giá cái hòm chỉ 675 đô, mà nhà
quàn đưa giá 3495 đô, cũng gật đầu chấp nhận. Giá xe tang mỗi giờ vào thời đó
chỉ 25 đô mà tăng lên 200 đô hay cao hơn nữa. Cũng như các món khác như là hoa,
bia mộ, thiệp cám ơn vân vân, tăng gấp 3 đến 8 lần. Nếu giá chỉ tăng 100% thôi,
là đã là phước cho tang chủ lắm.”
Hình minh
họa
Bà Hàn hỏi thêm: “Còn gì nữa không?”
“Đây, tác giả
viết rằng, có một bà đã khóc và xin bà con bạn bè trợ giúp tiền bạc để làm đám
tang cho chồng. Nhà quàn đòi 995 đô cho cái hòm. Khi có người hỏi sao đắt thế,
họ bảo đó là loại hòm đặc biệt. Có người không tin, đi khảo giá, cũng hòm đó,
loại đó, thì nơi sản xuất bảo rằng đó là loại rẻ nhất bằng ván
ép.
Hình minh
họa
Người ta đến phàn nàn
với nhà quàn, thì họ giảm giá xuống 50%. Có nhà quàn gián tiếp hối lộ cho tu sĩ,
giáo sĩ, tặng những vé máy bay đi chơi, du lịch miễn phí, để họ dành cho nhà
quàn sắp xếp chương trình tang lễ. Có thế mới ra giá cao được. Có thể tưởng
tượng được không, cùng một cái hòm, mà có nơi đưa giá chỉ 1495 đô, mà nơi khác
cho giá 9910 đô. Một số nhà quàn kiếm tiền của thân nhân kẻ quá cố dễ dàng, bằng
cách bán các phụ kiện trong đám ma. Ví như gắn thêm một tượng kim loại nhỏ, hình
Đức Mẹ Maria, giá mua chỉ chừng 3 đến 5 đô, mà tính đến một hai trăm. Người ta
ngại, không dám hỏi về những biếu tượng thiêng liêng nầy.”
Ông Hàn đưa tờ báo cho
mọi người và thúc hối : “Đọc đi, mọi người đọc đi để thấy việc tôi làm đây là
đúng hay sai. Nếu không biết, thì để cho người khác làm, đừng cản trở”
Vừa
lúc đó, thì có bà Kim đến. Bà nầy trước đây làm việc cho nhà quàn, bà là trưởng
giám đốc tang lễ, nay đã về hưu. Ông Hàn như bắt được của quý, xoắn lấy bà Kim,
yêu cầu giúp đỡ, hướng dẫn dể làm sao giảm thiểu được chi phí đám tang . Bà Kim
ngồi cười. Vợ ông Hàn chạy ra phân bua:
“ Giờ nầy mà ông xã em còn khảo giá
trên mạng để làm tang lễ. Ông ấy muốn giảm chi phí, vì nhiều nhà quàn thường cho
giá cao trên trời. Chị làm trong nghề, xin chị chỉ giúp tụi em
với.”
Hình minh
họa
Bà Kim
chậm rải: “Không phải nhà quàn nào cũng thiếu lương thiện, muốn nhân cơ hội tang
gia bối rối mà moi tiền. Rất nhiều nhà quàn đàng hoàng, uy tín, nhưng họ cũng
thừa khôn ngoan, để tìm lợi tức tối đa cho cơ sở kinh doanh của họ. Giá cả cũng
có cao, nhưng cao vừa phải, không quá lố. Nếu họ có đề nghị, quảng cáo khách
hàng mua thêm mục nầy, mục kia, thì là lẽ thường trong việc kinh doanh kiếm lời.
Với chủ trương không gạt gẫm ai, nhưng ai muốn có những thứ xa xỉ, đắt tiền, mà
có khả năng tài chánh, thì tại sao nhà quàn lại bỏ lỡ cơ hội ? Nhà quàn là nơi
làm thương mãi, kiếm lợi tức, chứ không phải nơi làm phước thiện.”
Ông Hàn
nhỏ nhẹ: “Chị có nhiều kinh nghiệm trong ngành nầy, chúng tôi xin chị vài lời
vàng ngọc hướng dẫn cho, làm sao để giảm thiểu chi phí chôn cất thân nhân, tránh
những sai lầm tốn kém vô ích.”
Bà Kim cười: “ Sai lầm lớn nhất của tang
quyến, là không chịu khảo giá năm ba nơi khác nhau. Người ta cho giá nào, thì
cũng nhận, không dám hỏi mà cũng không dám mặc cả từ quan tài, cho đến đất chôn,
và các nghi lễ tốn kém khác. Sai lầm kế tiếp là chọn lựa nhà quàn. Thường chọn
gần nhà, hoặc nơi đã có người quen làm đám tang rồi. Nếu không khảo giá vài ba
nơi, tang quyến có thể trả giá gấp 3 lần nơi khác. Ví như cùng việc mai táng, có
nơi cho giá 2500 đô mà chỗ khác đến 6500 đô. Cũng việc thiêu xác, có nơi chỉ 395
đô, mà nơi khác đến 5600 đô.”
Hình minh
họa
Bà vợ ông Hàn bẻn lẻn
nói nho nhỏ: “Nếu chị không nói ra điều đó thì em tưởng ông chồng em là người
khùng, gàn dỡ, chướng ách. Nhưng em hỏi chị, thì giờ đâu mà đi khảo giá, thân
nhân mình chết rồi, có nằm đó mà chờ được không?”
Bà Kim cười nhẹ nhàng:
“
Cứ thong thả, để xác thân nhân tại bệnh viện, nơi đây có đủ phòng lạnh để tồn
trử, không ai đem xác quăng đi hoặc gởi hoá đơn xuống âm phủ đòi tiền người
chết. Khi nào tìm được nơi làm tang lễ tốt, giá cả xứng đáng, chịu được, thì mới
ký hợp đồng”
Một ông rể trong gia đình xen vào câu chuyện: “Trường hợp của
gia đình tôi, ông bố vừa tắt thở tại bệnh viện, thì khoảng mười phút sau có nhân
viên của nhà quàn đến tiếp xúc với gia đình, nói là họ được kêu điện thoại để
đem thi hài thân nhân quý vị về nhà quàn. Chúng tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng là
tự nhiên có người lo cho mình, khỏi phải đi tìm, chạy ngược xuôi trong lúc bối
rối nầy. Chị có biết tại sao nhà quàn biết giỏi thế?”
Bà Kim cười: “Có gì lạ
đâu? Nhiều nhà quàn liên lạc mật thiết với các y-tá trong các khu cấp cứu, hồi
sinh. Khi có người qua đời, thì y tá báo ngay cho nhà quàn biết. Cũng là chuyện
làm ăn thường tình”
Ông Hàn hỏi: “Làm sao giảm thiểu được chi phí tống táng,
mà tang lễ vẫn được trang trọng, bình thường?”
Hình minh
họa
Bà Kim nói: “Đừng gồng
mình lên mua tất cả các mục không cần thiết mà nhà quàn liệt kê và khuyến cáo.
Mua tối thiểu mà thôi. Vòng hoa trên ngực, vòng hoa trên quan tài, mình mua chỉ
mấy chục đô, nhà quàn sẽ tính đắt gấp năm, gấp mười lần. Nếu khôn ngoan, thì làm
lễ tưởng niệm tại nhà, tại chùa, nhà thờ. Trang trọng và thân mật hơn.”
Bà
Hàn lo lắng hỏi: “Chỉ có mua hòm và đất chôn thôi, là đã đủ. Còn chi phí gì khác
nữa chăng ?”
Bà Kim cười : “ Có lẽ ai cũng tưởng chôn cất là đơn giản như chị
nghĩ. Không. Cả mấy chục thứ chi phí , tôi kể sơ ra đây mà thôi, nghe chán lằm.
Nầy nhé, chi phí cơ bản tại nhà quàn để bàn định việc chôn cất, giấy phép chính
quyền, khai tử, mua hòm, vải tẩm liệm, quách bao quanh hòm dưới đất, chuyển xác
từ nơi chết về nhà quàn, tẩm xác bằng cách rút hết chất lỏng trong người ra và
bơm chất hoá học vào, trang điểm cho người chết, áo quần liệm, giữ xác trong
phòng lạnh, mướn phòng viếng thăm, đem xác ra vào, lễ viếng thăm, thức ăn, giải
khát, tổ chức cử hành tang lễ, in chương trình tang lễ, cuốn tập ghi khách viếng
thăm, vòng hoa trên ngực và vòng hoa trên giá, tụng niệm tôn giáo, ban nhạc, xe
tang chuyển hòm từ nhà quàn ra huyệt mộ, xe lớn chở thân nhân theo quan tài, xe
chở các vòng hoa ra nơi chôn, đất chôn, đào và lấp mộ, chuẩn bị mặt bằng để làm
lễ hạ huyệt, căng lều, ghế ngồi, xếp đặt việc hạ huyệt, bia mộ tạm, đăng cáo
phó, bia mộ, khắc chữ, dựng bia vân vân, mỗi mục là tính tiền riêng. Chưa kinh
nghiệm thì tưởng chỉ có mua hòm và đât chôn là xong. Cọng tất cả lại, cũng là số
tiền rất lớn, tang gia không ngờ được.”
Hình minh
họa
Bà Hàn hỏi:
“Thế thì mục gì mình có thể từ chối, không mua?”
“Còn tùy cách lựa chọn,
thường thì mục nầy kéo theo mục kia, nhưng có nhiều mục có thể bỏ qua được. Nếu
muốn tránh những chi phí linh tinh, thì tốt nhất là giảm bớt các nghi tức rườm
rà, như thăm viếng nhìn mặt, làm lễ tại nhà quàn. Thân nhân có thể làm lễ tưởng
niệm tại nhà thờ, chùa hay tại tư gia trong khung cảnh nghiêm trang, và bà con
đỡ phải cực nhọc thăm viếng. Người quá cố được đưa từ bệnh viện đến nhà quàn,
rồi thẳng ra huyệt mộ. Ngày nay, nhiều gia đình Mỹ tổ chức tang lễ đơn giản cho
người quá cố, chỉ riêng trong vòng bà con thật gần gũi thân thiết, không tiếp
bạn bè, quan khách, không vòng hoa, không phúng điếu”
Bà Hàn cắt ngang lời:
“Thế thì không sợ người ta nghị dị, chê cười? Thiên hạ tưởng gia đình keo kiệt,
bần tiện, không dám chi tiền, hoặc người ta chê mình nghèo?”
Hình minh
họa
Bà Kim thở dài: “Quan
trọng nhất là ước nguyện của người quá cố. Biết họ muốn gì, và mình làm được gì
trong khả năng tài chánh của gia đình. Nhiều người chết, muốn tang lễ đơn giản,
mà gia đình sợ bạn bè bà con dèm pha, phải gồng mình lên chi tiêu, nợ nần, mua
lo âu vào thân. Cách tốt nhất, là mỗi người, làm sẵn di chúc, viết rõ các ước
muốn của mình, trong khả năng tài chánh có thể. Chuẩn bị trước khi chết một
chương trình và lối tang lễ mà mình ưa thích, mong muốn, và hợp với khả năng tài
chánh sẵn có. Đừng để gánh nặng đè lên vai người còn sống, và đôi khi thực hiện
tang lễ trái với ý muốn của mình. Đừng có dặn miệng thôi, không có bằng chứng,
con cháu nhiều người quên mà không ai nghe. Khi đó, gia đình đỡ bối rối, vì kẻ
muốn thế nầy, người muốn thế kia, gây gổ nhau. Nếu tang lễ có đơn giản, thì cũng
không ngại ai chê cười. Nếu những người có dư tiền, muốn hoang phí đem chôn tiền
xuống đất, thì cũng không ai trách móc . Bà nội tôi ngày trước, muốn con cháu
mặc áo sô, thắt lưng rơm, dép cỏ, khóc lóc, nằm lăn lộn cản đường xe tang. Thuê
thêm người khóc mướn làm điếc tai bàng dân thiên hạ. Thấy không đẹp, thiếu văn
minh. Nghe đâu ông cố nội của tôi chết, hòm quàn trong nhà gần môt năm dài, tiếp
khách viếng tang, chôn xong thì bà cố chết vì quá mệt nhọc, và gia đình sạt
nghiệp.”
Hình minh
họa
Ông Hàn hỏi:
“Trẻ như chúng tôi, có nên viết di chúc không? Khi nào là lúc nên
viết?”
“Trên năm mươi tuổi, thì viết được rồi. Những người bệnh nặng, nên
viết ngay là tốt nhất. Tôi biết, nhiều người Mỹ giàu hàng trăm triệu, khi chết
cũng muốn làm đám tang đơn giản, tối thiểu, không cho ai nhìn mặt, và chỉ có vài
chục thân nhân tham dự. Trong nghề, tôi biết khá nhiều gia đình Việt Nam giàu
có, khi chết cũng chuyển xác từ bệnh viện thẳng đến nhà thiêu luôn, khỏi phải
qua nhiều giai đoạn, nghi thức rườm rà. Rồi bà con bạn bè đến nhà làm lễ tưởng
niệm, nhắc chuyện vui buồn liên hệ đến người quá cố trong không khí vui vẻ, bình
thường. Tôi nhấn mạnh ở điểm nầy, nếu không muốn cho thân nhân bối rối khi mình
qua đời, thì mỗi người lớn tuổi, nên viết sẵn lời dặn dò cho gia đình”
Ông
anh lớn nói: “Theo tôi nghĩ, người Việt mình bắt chước Mỹ, trưng bày mặt người
chết cho bạn bè thân nhân nhìn lần cuối trước khi đem chôn là một việc làm không
nên. Vì dù có trang điểm cách nào đi nữa, thì khi đã chết, mặt mày cũng không
còn dễ nhìn như khi còn sống, nếu không nói là xấu xí, rờn rợn, hốc hác, tái
mét. Cái hình ảnh cuối cùng trong trí của bạn bè rất quan trọng. Nếu không được
đẹp đẽ, thiếu sống động như xưa, uổng vô cùng. Nhiều lần đi đám tang bà con, tôi
thấy mặt mày người chết hốc hác, méo mó, miệng vẩu, mắt sâu, mà cứ buồn và tiếc
mãi, giá như tôi đừng nhìn thấy hình ảnh đó thì hơn, để tôi còn giữ mãi trong
trí cái khuôn mặt vui tươi, rắn rỏi, dễ thương ngày xưa. Nhất là nhiều người
bạn, cứ nhắc đến tên, là tôi mường tượng ra đôi mắt sáng, nụ cười như hoa tươi,
thay được bằng một hình ảnh vêu vao khó nhìn. Tôi cứ muốn quên đi, để lấy lại
hình ảnh đẹp đẽ xưa, mà không được. Tôi chắc không ai muốn bị bạn bè nhìn họ với
một nhan sắc xấu xí cả. Tuy nhiên, cũng có rất ít trường hợp, thấy mặt người
chết đẹp hơn khi còn sống. Đó là những trường hợp người chết chưa bị bệnh lâu
dài, nhan sắc chưa bị tàn phá nhiều. ”
Bà vợ ông Hàn nói: “Theo tôi, thì vì
người trang điểm kém, hoặc chi ít tiền trang điểm, nên người chết không được
đẹp”
Bà Kim cười lớn: “Một chiếc xe Ford đời cũ, làm sao mà sửa lại thành đẹp
bằng chiếc xe Mercedes đời mới. Tô trát cũng có giới hạn thôi, ngoại trừ mang
cái mặt nạ khác. Theo kinh nghiệm của tôi, thì không phải đám tang nào của người
Mỹ cũng trưng bày mặt người chết cho bạn bè nhìn. Nhất là những người đã đau yếu
bệnh hoạn lâu ngày, ngay cả khi chưa chết, họ không muốn ai thấy họ đã ốm o, hốc
hác, xấu xí cùng cực.”
Hình minh
họa
Ông Hàn thêm vào câu
chuyện; “Khi làm mặt và trang điểm cho người chết, tôi xem chiếu trong phim tài
liệu, mà sợ. Ngoài việc moi hết tim gan phèo phổi, dạ dày, ruột non ruột già,
thấy người ta còn dùng mấy cây sắt dài chừng nửa thước, to hơn chiếc đũa, xiên
từ trong miệng xuống cổ, vào thân, có lẽ để giữ cho cái đầu và xác ở vị trí
thẳng. Rồi cắt trong nướu, để dùng dây kẽm may, xâu hàm trên và hàm dưới lại với
nhau trong vị trí bình thường, cho miệng khỏi há ra, và may môi lại với nhau.
Dùng chất dẻo đắp vào các nơi cần đắp. Sau đó, dùng phấn, màu, thoa lên mặt, tạo
thành một lớp giống như da thường. Cắt tóc, cạo hay tiả râu lại cho đẹp. Nếu
mình chứng kiến tận mắt khi họ làm cho thân nhân mình, thì đau lòng lắm.”
Ông
anh vợ cắt ngang: “Thôi, thôi, dượng đừng nói chuyện đó, nghe mà ghê. Khuất mắt,
mình không thấy thì đỡ sợ. Sao không trở lại câu hỏi chính, là làm thế nào để
chi phí tang lễ ít tốn kém nhất?”
Bà Kim cười: “Cách tốt nhất là thiêu xác,
và nếu thiêu liền, chuyển xác từ nơi chết, trực tiếp đến lò thiêu, tang lể làm
tại nhà, không nhìn mặt, thì đỡ được rất nhiều chi phí khác như tẩm liệm, ướp
thuốc, xem mặt, thuê phòng, xe tang. Thường phí tổn chỉ trên 1000 đô
thôi.”
Bà Kim hớp thêm ngụm trà, rồi tiếp: “Có người nói sợ nóng, không dám
thiêu. Nhưng khi chết rồi, thần kinh đã tê liệt, thì đâu biết chi nữa mà nóng
hay lạnh. Nếu còn biết nóng lạnh, thì khi nằm dưới đất lạnh lẽo, tối om, chật
chội, ngộp , dòi bọ vi trùng đục khoét, mặt mày teo rúm, há hốc mồm miệng, nhăn
răng, khô đét, hoặc rữa mũn ra, thì có khó chịu hơn không? Chưa kể điều mà chủ
nghĩa địa bảo là đất ‘vĩnh viễn’, thì thường là 49 năm hay 99 năm thôi. Sau đó
thì thông cáo trên báo chí là sẽ dời xác. Con cháu có bao giờ đọc đến cái thông
cáo nầy, mà có đọc, cũng không biết đó là mộ của thân nhân mình. Bên Âu Châu, có
nhiều hầm nhà mồ, xương chất đẩy, xương của hàng trăm vạn ngôi mộ được đào lên,
gom lại, xếp đặt hàng triệu miếng xương lẫn lộn , rất mỹ thuật. Luật lệ nhiều
xứ, chỉ cho chôn 5 năm hay 10 năm, hoặc mấy chục năm thôi. Phải bốc mộ sau thời
gian đó. Ít có nơi nào là vĩnh viễn hoặc lâu vài ba trăm năm. Ngày nay tại Mỹ,
ngưòi ta càng ngày càng ưa thích việc thiêu xác. Các xứ khan hiếm đất đai như
Nhật, và cả Tàu, Ấn Độ, đều thiêu xác. Ngoại trừ những vùng xa xôi, còn giữ lại
việc chôn dưới đất.Theo thống kê năm 2009, thì mười tiểu bang sau đây, có tỷ lệ
thiêu xác cao nhất ở Mỹ: Nevada 73.93%, Washington 69.62%, Oregon 69.24%, Hawaii
68.82%, Vermont 65.67%, Arizona 65.60%, Montana 64.81%, Maine 62.75%, Colorado
62.01%, Wyoming 61.76%”
Bà Hàn xen vào: “Người theo đạo Chúa, có thiêu xác
được không?”
Bà Kim cười và tiếp lời: “Mãi cho đến khi Đức Giáo Hoàng Phao Lồ
Sáu tuyên bố việc hoả thiêu là không trái với Giáo Luật vào năm 1963 và ba năm
sau, các linh mục được phép làm lễ cho các đám tang hoả thiêu, thì việc hỏa táng
được phát triển rất mau. Ngày xưa giáo hữu Thiên Chuá tin rằng, phải còn xác, để
chờ ngày phán xét cuối cùng, mà sống lại trên thân xác đó. Chì còn đạo Do Thái
là cấm hỏa thiêu thôi, vì họ cho rằng, tro cốt nằm trong hủ, không thể “đất bụi
trở về lại với đất bụi được”
Hình minh
họa
Ông Hàn bưng bánh ra
mời bà con, và nói : “Ông anh rễ tôi kể rằng, thời mới chạy qua Mỹ mấy năm sau
1975, anh em đồng khoá Võ Bị Đà Lạt đi thăm viếng một người bạn đang hấp hối vì
bệnh ung thư trong khu chờ chết ở Viện Phục Hòi. Khi đó, đa số đều độc thân,
hoặc vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, bơ vơ, không bà con thân thích. Anh em thấy
ông bạn nằm thiêm thiếp, bàn nhau đóng tiền thiêu xác. Tưởng hắn mê man không
nghe được, nhưng bỗng hắn mở mắt ra và nói rõ ràng : “Ông cóc muốn thiêu, sợ
nóng lắm. Chôn mà thôi” Đám bạn bè giật mình nhìn nhau. Một ông bạn nóng tánh,
gằn giọng: “Đưa tiền đây, tụi tao chôn cho. Thằng nào cũng rách mướp, tiền đâu
mà chôn mầy.” Một ông bạn khác nháy mắt, rồi nói: “Mầy muốn chôn cũng được, yên
tâm đi.” Khi đi ra ngoải, anh bạn nói: “ Cứ hứa đại, cho nó yên tâm chết. Sau
khi chết rồi, thì cóc biết chó gì nữa, thiêu hay chôn thì cũng thế.” Thời đó,
mới đến Mỹ, người nào cũng đi làm việc lao động với đồng lương tối thiểu, lo
nuôi thân chưa đủ, lại lo gởi tiền giúp gia đình bên Viêt Nam, tiền đâu mà bỏ ra
chôn cất bạn bè, đòi việc ngoài khả năng, làm sao mà thoả mãn được? Nầy chị Kim,
chị biết tại sao ngày nay người ta chuộng việc thiêu xác hơn là chôn
không?”
Bà Kim ăn bánh, uống nước, rồi thong thả nói: “Theo nghiên cứu của
các nhà xã hội học, người ta chuộng thiêu hơn chôn vì càng ngày người có học
thức cao càng đông đảo hơn, việc thiêu xác được quần chúng chấp nhận xem như
bình thường, đất chôn không còn dễ dàng và rẻ như xưa, tiết kiệm đất đai cho
người còn sống, giáo luật không cấm thiêu, tiện lợi, giản dị và tiết kiệm được
nhiều thì giờ, giảm thiểu chi phí không cần thiết.”
Một người khác trong gia
đình hỏi: “Tôi nghe nhiều người già mua trước toàn bộ chương trình tang lễ, từ
đầu tới cuối. Khi nằm xuống thì khỏi bàn cãi lôi thôi gì, và tiền bạc cũng đã
thanh toán xong. Gia đình khỏi phải bận tâm. Việc mua trước đó, có thất không,
và có lợi hại gì không?”
Bà Kim gật gù: “Mua trước toàn bộ các mục cho đám
tang cũng là điều hay. Nhưng phải liệt kê rõ ràng từng danh mục cho minh bạch,
đừng thiếu khoản nào. Để sau nầy khỏi phải trả thêm, vì thiếu sót. Cũng có nhà
quàn muốn kiếm chác thêm chút chút, khi làm đám tang, nói là hòm loại nầy chưa
về hoặc mới hết, phải chờ mua . Nghe chờ mua hòm là đã hết hồn, và chấp nhận trả
thêm tiền cho cái hòm đắt hơn.”
Hình minh
họa
Ông Hàn hỏi: “Có khi
nào mình mua trước, tiền thanh toán hết rồi, mà khi chết, họ chối từ làm tang ma
hay không?”
Bà Kim cười khanh khách: “Chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. Bình
thường, thì không có chuyện rắc rối đó. Ngoại trừ khi nhà quàn bị đóng cửa, hoặc
đã đổi chủ. Kẹt nhất là khi mình đổi nơi cư trú quá xa nhà quàn ký hợp đồng làm
tang lễ, hoặc mình chết ở một chốn xa xôi nào đó, mang xác về tốn kém hơn là
chôn hay thiêu ở nơi chết. Thường thường hợp đồng nầy không trả lui được, không
chuyển nhượng cho người khác được. Mua trước cũng có cái lợi, là phí tổn khòi
phài tăng theo thời giá.”
Hình minh
họa
Cả nhà mời bà Kim ở lại ăn cơm, để tham dự cuộc họp gia đình
và điện thoại khảo giá việc tang lễ. Cả gia đình bàn cãi sôi nổi, kẻ muốn chôn,
người muốn thiêu, bà chị lớn còn muốn làm đám tang linh đình, đủ các nghi thức
rườm rà. Cả nhà cãi nhau thành to tiếng, mãi chưa đi đến đâu, thì cô Út lấy
trong xách tay ra một là thư, nhìn mọi người và nói với giọng run run đầy nước
mắt:
“Thưa các anh chị, em muốn cho mẹ có được một đám tang bình thường như
mọi người. Em để các anh chị quyết định, nhà chúng ta không thiếu tiền, không
cần tiết kiệm. Nhưng các anh chị không đồng ý với nhau, có thể sinh ra bất hoà,
nên em xin trình lá thư của mẹ gởi cho em từ lâu, để anh chị xem. Đây, em xin
đọc lá thư : “...Sau nấy mẹ chết, thì mẹ ước mong các con làm đám tang đơn giản.
Không khăn sô, không tụng niệm, không để bà con xem mặt, không phúng điếu, không
vòng hoa, và mẹ muốn được thiêu xác. Tro cốt thì đem thả xuống Thái Bình Dương,
để mẹ hoà tan vào biển cả, may ra thấm về thấu tận quê nhà bên kia đại dương.
Đừng chôn tiền xuống đất. Tiền tiết kiệm được đem cúng cho hội từ thiện
..”
Cả nhà trách cô Út tại sao không đưa là thư ra từ đầu, để khỏi bàn cãi
lôi thôi, cô khóc mà không trả lời.
Sau khi nhờ bà Kim phối hợp, cả nhà hoàn
tất và ký khế ước hỏa thiêu. Chi phí tang lễ chôn cất do nhà quàn đề nghị tổng
cọng 34,680 đô, chỉ còn tốn 1676 đô bao gồm toàn bộ thủ tục giấy tờ, chuyển xác,
hoả thiêu và bình tro tạm.
Toàn anh chị em trong gia đình góp thêm tiền, đem
tặng hội từ thiện 35 ngàn đô. Cả nhà đều vui mừng, nhẹ nhỏm. /.
Tràm Cà Mau
CHUYỆN ÔNG TƯ CHẾT MÀ VUI
Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao lại sợ chết ?Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai ? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.Bởi vậy, ông bình tỉnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao ? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn ?Đáng ra phải cáo phó bằng câu : " Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng " khóc báo " với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì ?Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm.Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất.( Về việc đóng tiền cho người khác để mua hòm và mai táng )Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu.Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm ? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao?Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.Bạn ông Tư hỏi : - Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng ? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.Ông Tư cười lớn nói :
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được ?Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ.Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ ?Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom.Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cộng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa.Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Khi Tôi ChếtNếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ, có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.( Ông Tư đọc bài thơ trên )Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ.Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.Cuộc đời này chỉ là 1 giấc mơ. Có nhiều người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm rồi, mới nhìn lại được quãng đời mình.Như 1 cuốn phim, quay chậm...Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt nào rồi cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.Và con người nào rồi cũng trở thành cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được.Có quán niệm được điều này (không qua nói miệng) trong mổi ngày, trong hành động, và từng hơi thở..Thì sẽ tìm được hạnh phúc không xa...
Câu chuyện thật ý nghĩa. Cảm ơn bạn đã chia sẽ
ReplyDelete.................
Mr Phat
Vỏ chai argon 6m3 uy tín chất lượng tại TPHCM